Học tập chuyên đề
Tài liệu chuyên đề học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh năm 2024 cho cán bộ đoàn
08/04/2024 14:04
28712 0
HỌC TẬP VÀ LÀM THEO TƯ TƯỞNG, ĐẠO ĐỨC, PHONG CÁCH HỒ CHÍ MINH VỀ DÁM NGHĨ, DÁM NÓI, DÁM LÀM, DÁM CHỊU TRÁCH NHIỆM, DÁM ĐỔI MỚI SÁNG TẠO, DÁM ĐƯƠNG ĐẦU VỚI KHÓ KHĂN, THỬ THÁCH VÀ DÁM HÀNH ĐỘNG VÌ LỢI ÍCH CHUNG (Tài liệu dành cho cán bộ Đoàn năm 2024)
Phần thứ nhất:
TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ DÁM NGHĨ, DÁM NÓI, DÁM LÀM,
DÁM CHỊU TRÁCH NHIỆM, DÁM ĐỔI MỚI SÁNG TẠO,
DÁM ĐƯƠNG ĐẦU VỚI KHÓ KHĂN, THỬ THÁCH
VÀ DÁM HÀNH ĐỘNG VÌ LỢI ÍCH CHUNG
CỦA CHỦ TỊCH HỒ CHÍ MINH
 

1. Quan điểm của Hồ Chí Minh về dám nghĩ, dám nói, dám làm, dám chịu trách nhiệm, dám đổi mới sáng tạo, dám đương đầu với khó khăn, thử thách và dám hành động vì lợi ích chung

Chủ tịch Hồ Chí Minh là tấm gương sáng ngời, mẫu mực về tư tưởng và phong cách dám nghĩ, nói đi đôi với làm, lý luận gắn liền với thực tiễn, dám hành động đổi mới, sáng tạo. Ở Người, đó là một đời dấn thân, tranh đấu và dâng hiến cho Nhân dân, cho Tổ quốc, vì độc lập của dân tộc, tự do, hạnh phúc của Nhân dân. Sinh ra trong cảnh nước mất, nhà tan, nhân dân lầm than, cơ cực, nên nỗi suy tư, trăn trở lớn nhất của Người chính là: “Tự do cho đồng bào tôi, độc lập cho Tổ quốc tôi”. Nỗi niềm canh cánh đó đã trở thành khát vọng mãnh liệt, thôi thúc Người ra đi tìm đường cứu nước, cứu dân, khởi đầu cho một hành trình gian lao, nhưng đầy vinh quang - Hành trình khát vọng: “là làm sao cho nước ta được hoàn toàn độc lập, dân ta được hoàn toàn tự do, đồng bào ai cũng có cơm ăn áo mặc, ai cũng được học hành”[1].
Trên hành trình ấy, chứng kiến những nỗi đau của mỗi kiếp cần lao, mỗi đời nô lệ, khi bắt gặp ánh sáng của chủ nghĩa Mác - Lênin, lòng yêu nước, thương dân của Người đã hòa nhịp, kết tinh với tình yêu thương nhân loại; khát vọng giải phóng dân tộc gắn liền với khát vọng giải phóng giai cấp, giải phóng con người khỏi mọi áp bức, bất công. Lý tưởng độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội; hết lòng phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân đã trở thành động lực, lẽ sống mà trọn đời mình - Người đã tranh đấu, dâng hiến và hy sinh. Qua đó, ta thấy được đầy đủ, trọn vẹn nhất với biết bao bài học, giá trị về tư tưởng, đạo đức, phong cách của một nhà cách mạng thể hiện sâu sắc bản lĩnh, dũng khí dám nghĩ, dám làm, tinh thần độc lập, tự chủ, sáng tạo, làm chủ mọi hoàn cảnh và đặc biệt là dám hành động, dám chịu trách nhiệm, vượt qua mọi khó khăn, thử thách để nắm bắt được xu thế của lịch sử, nhận thức đúng quy luật, hành động đúng như quy luật để hướng đến mục tiêu cao cả của nhân dân, dân tộc và nhân loại.

- Quan điểm của Hồ Chí Minh về sự cần thiết, mục đích của dám nghĩ, dám nói, dám làm, dám chịu trách nhiệm, dám đổi mới sáng tạo, dám đương đầu với khó khăn, thử thách và dám hành động vì lợi ích chung

Phải khẳng định tinh thần dám nghĩ, dám nói, dám làm, dám chịu trách nhiệm, dám đổi mới sáng tạo, dám đương đầu với những khó khăn, thử thách, từ đó có hành động để hiện thực hoá nhiệm vụ cách mạng, hướng đến mục tiêu chung của sự nghiệp cách mạng đó là trách nhiệm, sứ mệnh, sự dấn thân, hi sinh cao cả trước hết là của đội ngũ cán bộ, đảng viên trong toàn Đảng. Thực hiện tốt sứ mệnh đó sẽ góp phần quyết định thành công của sự nghiệp cách mạng như Người đã tổng kết: ““Cách mạng nhất định thành công” - Ta thành công chính vì ta đoàn kết, quyết tâm, tin tưởng... Chính vì ta có quyết tâm, dám nghĩ, dám làm, dám đánh và dám thắng””[2].
Trong công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội, tinh thần ấy trở thành sức mạnh tinh thần to lớn để cán bộ, đảng viên và nhân dân ta vững bước tiến tới hoàn thành sự nghiệp cách mạng của dân tộc là: “Xây dựng chủ nghĩa xã hội, xây dựng đời sống mới ở miền Bắc, ủng hộ cuộc đấu tranh yêu nước của đồng bào miền Nam, thực hiện một nước Việt Nam hòa bình, thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu mạnh, góp phần giữ gìn hòa bình ở Đông Nam Á và thế giới”[3], và “biến một nước dốt nát, cực khổ thành một nước văn hóa cao và đời sống tươi vui hạnh phúc”[4]… Để thực hiện mục đích to lớn ấy, Người yêu cầu: “Toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta đã đoàn kết cần đoàn kết hơn nữa. Mọi người hãy nêu cao chí khí phấn đấu, tinh thần cách mạng, không sợ gian khổ khó khăn, phát huy ý thức làm chủ tập thể, dám nghĩ, dám làm, hăng hái vươn lên làm tròn nhiệm vụ”[5].
Để phát huy những thuận lợi, xây dựng đất nước, vượt qua mọi khó khăn, “sáng tạo nên những thành tích to lớn” càng cần thiết phải nêu cao tinh thần dám nghĩ, dám nói, dám làm, dám chịu trách nhiệm, sáng tạo, dám đương đầu với khó khăn, thử thách và dám hành động để thực hiện thắng lợi mọi nhiệm vụ của cách mạng, xây dựng chế độ xã hội mới tốt đẹp hơn. Trong quá trình ấy, Người đặc biệt lưu tâm, căn dặn cán bộ, đảng viên và nhân dân ta trong lao động sản xuất phải sáng tạo, đổi mới với tinh thần mạnh dạn, dám nghĩ, dám làm, quyết tâm cao, trước hết là đổi mới về tư tưởng, bởi “Tư tưởng bảo thủ là như những sợi dây cột chân cột tay người ta, phải vất nó đi. Muốn tiến bộ thì phải có tinh thần mạnh dạn, dám nghĩ dám làm. Trong việc này cũng như mọi việc khác, cán bộ, đảng viên, và đoàn viên xung phong đi trước thì đồng bào sẽ tiến theo”[6].
Từ chỗ thấy được tầm quan trọng của việc khuyến khích cán bộ, đảng viên, nhân dân sáng tạo, dám nghĩ, dám làm, dám hành động vì lợi ích chung của nhân dân và của sự nghiệp cách mạng vĩ đại của dân tộc, Người quan sát và nhận thấy từ trong thực tiễn lao động, sản xuất, xây dựng nước nhà đã có rất nhiều những tấm gương cần phải nhân rộng, tạo sức lan toả rộng rãi hơn nữa trong phong trào thi đua yêu nước: “… người ta thấy nhiều sáng kiến rất hay, rất tốt. Tuy mới là bước đầu, những sáng kiến ấy đều đưa lại kết quả: nâng cao năng suất lao động, tăng chất lượng, giảm giá thành, nghĩa là góp phần vào công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội.  Những kết quả ấy chứng tỏ rằng các đồng chí bộ đội, công nhân và lao động trí óc đã bắt đầu dám nghĩ, dám làm”[7]. Từ đó, Người động viên và chỉ rõ cần “Phát huy tinh thần tích cực và sáng tạo của các xã viên, động viên tinh thần dám nói, dám nghĩ, dám làm đối với mọi công việc của hợp tác xã, nhất là đối với việc quản lý lao động, cải tiến kỹ thuật và đẩy mạnh sản xuất”[8]. Nói chuyện tại Đại hội chiến sĩ thi đua công nghiệp toàn quốc năm 1960, Người nhấn mạnh: Năm vừa qua anh chị em công nhân các xí nghiệp đã có tinh thần dám nghĩ, dám làm, do đó phát huy nhiều sáng kiến tốt... Như vậy là tốt. Các cán bộ phụ trách cần phải chú ý nghiên cứu kịp thời các sáng kiến của công nhân, bổ sung, phổ biến và áp dụng rộng rãi để mọi người cùng làm. Như vậy, sáng kiến mới có tác dụng tốt”[9].
Phát huy tinh thần dám nghĩ, dám nói, dám làm, dám chịu trách nhiệm, sáng tạo, dám đương đầu với những khó khăn, thử thách, dám hành động vì mục tiêu của cách mạng còn được thể hiện rõ trong quá trình “làm chủ nước nhà”. Theo Người, cán bộ, đảng viên và nhân dân muốn làm chủ được tốt, phải có năng lực làm chủ, có đủ năng lực tổ chức cuộc sống mới, trước hết là tổ chức nền sản xuất mới, có tinh thần “hăng hái lao động, say mê học tập để không ngừng nâng cao năng lực làm chủ của mình”[10]. Người căn dặn và mong muốn, nhất là đối với thế hệ trẻ - chủ nhân tương lai của đất nước, rường cột của cách mạng: “Chúng ta phải vì lợi ích chung mà dốc lòng học tập những điểm tốt ấy để cải tiến công tác một cách thường xuyên. Không những thế mà còn phải tìm học những cái hay mà mỗi người lao động trung bình hoặc chậm tiến đều có thể có. Như vậy là làm cho sáng kiến, kinh nghiệm chung ngày càng dồi dào, trình độ tư tưởng, tổ chức, kỹ thuật chung ngày càng nâng cao. Do đó, sản xuất phát triển ngày càng nhanh và vững, đời sống nhân dân lao động ngày càng no ấm, đầy đủ”[11].
Đối với mỗi địa phương, cơ quan, đơn vị, phát huy tinh thần dám nghĩ, dám nói, dám làm, dám chịu trách nhiệm, sáng tạo, dám đương đầu với những khó khăn, thử thách, dám hành động vì mục tiêu chung lại càng quan trọng và cần thiết, bởi, như Người đã khẳng định: “Bất kỳ địa phương nào, cơ quan nào, thường trong một lúc có nhiều công việc trọng yếu. Trong một thời gian đó, lại có một việc trọng yếu nhất và vài ba việc trọng yếu vừa. Người lãnh đạo trong địa phương hoặc cơ quan đó phải xét kỹ hoàn cảnh mà sắp đặt công việc cho đúng. Việc chính, việc gấp thì làm trước. Không nên luộm thuộm, không có kế hoạch, gặp việc nào, làm việc ấy, thành thử việc nào cũng là việc chính, lộn xộn, không có ngăn nắp. Đối với mỗi địa phương, mỗi cơ quan, người lãnh đạo cấp trên cần phải xét cho rõ tình hình, hoàn cảnh, và điều kiện cả địa phương hoặc cơ quan đó, mà quyết định việc gì là việc chính của thời kỳ nào. Khi đã quyết định, thì phải thực hành triệt để, cho đạt kết quả đã định”[12]. Bên cạnh đó, Người cũng nhấn mạnh, muốn xây dựng, phát triển địa phương, đơn vị mình tốt “phải ra sức suy nghĩ, tìm tòi, để tăng thêm sáng kiến của mình”[13].

- Quan điểm Hồ Chí Minh về nội dung dám nghĩ, dám nói, dám làm, dám chịu trách nhiệm, dám đổi mới sáng tạo, dám đương đầu với khó khăn, thử thách và dám hành động vì lợi ích chung

Dám nghĩ, dám nói, dám làm, dám chịu trách nhiệm, dám đổi mới sáng tạo, dám đương đầu với khó khăn, thử thách và dám hành động vì lợi ích chung của dân tộc, của Nhân dân là phẩm chất cao quý của mỗi con người, đặc biệt là đối với cán bộ, đảng viên. Đối với người cán bộ, đảng viên - đó là chữ DŨNG và đi liền với đó là cả một bản lĩnh vững vàng mà Hồ Chí Minh quan niệm “DŨNG là dũng cảm, gan góc, gặp việc phải có gan làm. Thấy khuyết điểm có gan sửa chữa. Cực khổ khó khăn, có gan chịu đựng. Có gan chống lại những sự vinh hoa, phú quý, không chính đáng. Nếu cần, thì có gan hy sinh cả tính mệnh cho Đảng, cho Tổ quốc, không bao giờ rụt rè, nhút nhát”[14].
Bản lĩnh để dám nghĩ, dám nói, dám làm, dám chịu trách nhiệm, vượt qua mọi khó khăn, thử thách, đối với Đảng, Người yêu cầu Đảng cũng như mỗi đảng viên khi đã mắc khuyết điểm rồi thì phải thật thà, dũng cảm và cả quyết nhận khuyết điểm để kiên quyết sữa chữa với bản lĩnh của người cộng sản bằng thái độ đúng đắn, khách quan, khoa học, mà phương cách tốt nhất đó là công khai thừa nhận với tinh thần “Đảng không che giấu những khuyết điểm của mình, không sợ phê bình. Đảng phải nhận khuyết điểm của mình mà tự sửa chữa, để tiến bộ, và để dạy bảo cán bộ và đảng viên”[15]; với tinh thần dám đương đầu, dám chịu trách nhiệm, Người lo lắng và cảnh báo “Nếu không kiên quyết sửa chữa khuyết điểm của ta, thì cũng như giấu giếm tật bệnh trong mình, không dám uống thuốc, để bệnh ngày càng nặng thêm, nguy đến tính mệnh”[16]. Với tâm thế dám nói, dám làm, dám chịu trách nhiệm, thành khẩn, thật thà Người cho rằng: “Một Đảng có gan thừa nhận khuyết điểm của mình, vạch rõ những cái đó, vì đâu mà có khuyết điểm đó, xét rõ hoàn cảnh sinh ra khuyết điểm đó, rồi tìm kiếm mọi cách để sửa chữa khuyết điểm đó. Như thế là một Đảng tiến bộ, mạnh dạn, chắc chắn, chân chính”[17].
Dám nghĩ trong tư tưởng Hồ Chí Minh đó là việc nắm vững quy luật, tiếp nhận cái mới mà hay bởi nó thuận lòng dân, đúng quy luật khách quan, phù hợp với sự tiến triển chung của xã hội Việt Nam và thế giới với tư duy độc lập, tự chủ, sáng tạo, không lệ thuộc, không phụ thuộc, không bắt chước, rập khuôn, máy móc, giáo điều. Chủ động suy nghĩ và làm chủ suy nghĩ của mình, tự chịu trách nhiệm trước dân, trước nước, biết làm chủ bản thân và công việc.
Dám nói trong tư tưởng và hành động của Hồ Chí Minh thể hiện nội hàm rộng, sâu, hàm chứa trong đó tư duy phản biện, tinh thần tự phê bình và phê bình, phản ánh bản chất dân chủ của một đảng chân chính cách mạng. Nếu như “nghĩ” mới chỉ trong tư duy. Tư duy phải thể hiện bằng lời nói và hành động mà ở đây là dám nói, tức là nói những điều không phải có sẵn trong sách vở, kinh viện mà từ thực tiễn, từ cuộc sống sinh động, từ đòi hỏi của đổi mới và yêu cầu, nguyện vọng chính đáng của Nhân dân. Dám nói được thể hiện đậm nét trong những chỉ dẫn của Bác đối với cán bộ, đảng viên, đặc biệt là trong nghệ thuật dùng người để phát huy được trí tuệ, bản lĩnh, phẩm chất của cán bộ, đảng viên. Người yêu cầu phải “khiến cho cán bộ cả gan nói, cả gan đề ra ý kiến. Người lãnh đạo muốn biết rõ ưu điểm và khuyết điểm của mình, muốn biết công tác của mình tốt hay xấu, không gì bằng khuyên cán bộ mình mạnh bạo đề ra ý kiến và phê bình… Nếu cán bộ không nói năng, không đề ra ý kiến, không phê bình, thậm chí lại tâng bốc mình, thế là một hiện tượng rất xấu. Vì không phải họ không có gì nói, nhưng vì họ không dám nói, họ sợ. Thế là mất hết dân chủ trong Đảng. Thế là nội bộ của Đảng âm u, cán bộ trở nên những cái máy, trong lòng uất ức, không dám nói ra, do uất ức mà hóa ra oán ghét, chán nản”[18]. Muốn cán bộ công tác giỏi, muốn sự nghiệp đổi mới tiến lên, gặt hái được nhiều thành tựu năm sau to hơn năm trước thì việc cần làm ngay, nhất định phải để cán bộ dám nói, có gan phụ trách. Bởi vì, “nếu đào tạo một mớ cán bộ nhát gan, dễ bảo “đập đi, hò đứng” không dám phụ trách. Như thế là một việc thất bại cho Đảng”[19].
Trong xây dựng chế độ dân chủ nhân dân, khuyến khích để nhân dân tham gia xây dựng chế độ, dám nói - “dám mở mồm ra” là một nét đặc trưng của dân chủ trong chế độ dân chủ nhân dân, dân chủ xã hội chủ nghĩa dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản. Không chỉ khuyên cán bộ cả gan nói, Bác còn dạy cán bộ khuyến khích nhân dân dám nói để cán bộ thêm ưu điểm, cách mạng thêm động lực. Theo Người, nếu quần chúng nói mười điều mà chỉ có một vài điều xây dựng, như thế vẫn là quý báu và bổ ích. Người khuyên chúng ta: “Để phát triển ưu điểm, điều quan trọng nhất là để cho dân nói. Dân biết nhiều việc mà các cấp lãnh đạo không biết. Việc gì cũng bàn với dân; dân sẽ có ý kiến hay”[20]. Và, ngược lại với dân chủ là độc đoán, chuyên quyền. Nhận thức giá trị của đề cao dân chủ trong Đảng, Hồ Chí Minh không chỉ khẳng định đảng viên có quyền nói và yêu cầu cả gan nói, cả gan đề ra ý kiến, mà còn khuyến khích cán bộ “bàn luận dân chủ, các chú có ý kiến gì trái với Bác thì cứ cãi, nhất trí rồi về làm mới tốt được. Không nên: Bác nói gì, các chú cũng cứ ghi vào sổ mà trong bụng thì chưa thật rõ, rồi các chú không làm, hay làm một cách qua loa”[21].
Dám làm: Theo Hồ Chí Minh muốn cán bộ công tác giỏi, muốn sự nghiệp đổi mới tiến lên, gặt hái được nhiều thành tựu, năm sau to hơn năm trước thì nhất định phải dám làm, có gan phụ trách. Người yêu cầu cán bộ phải: “dũng cảm, gan góc, gặp việc phải có gan làm. Thấy khuyết điểm có gan sửa chữa. Cực khổ khó khăn, có gan chịu đựng. Có gan chống lại những sự vinh hoa, phú quý, không chính đáng. Nếu cần, thì có gan hy sinh cả tính mệnh cho Đảng, cho Tổ quốc, không bao giờ rụt rè, nhút nhát”[22]. Và mục đích của dám làm là để: “Suốt đời hết lòng hết sức phục vụ Tổ quốc, phục vụ cách mạng, phục vụ nhân dân,…”[23]. Chính vì vậy mà “Việc gì dù lợi cho mình, phải xét nó có lợi cho nước không? Nếu không có lợi, mà có hại cho nước thì quyết không làm. Mỗi ngày cố làm một việc lợi cho nước (lợi cho nước tức là lợi cho mình) dù là việc nhỏ, thì một năm ta làm được 365 việc. Nhiều lợi nhỏ cộng thành lợi to”[24] và Người yêu cầu “Yêu nước thì việc gì có lợi cho nhân dân, dù khó mấy cũng phải ra sức làm cho kỳ được. Điều gì có hại cho nhân dân, dù khó mấy cũng phải ra sức trừ cho kỳ hết”[25].
Dám chịu trách nhiệm: Được thể hiện ở bản lĩnh chính trị của cán bộ, đảng viên nhất là đối với cán bộ lãnh đạo, quản lý. Dám chịu trách nhiệm với kết quả công việc, lĩnh vực, ngành mà mình đảm trách, và hơn hết đó chính là tinh thần dám nhận lỗi, sửa sai, chịu trách nhiệm trước vận mệnh của dân tộc và Nhân dân. Trong quan điểm của Người “Dám chịu trách nhiệm” còn là sự thể hiện năng lực, dũng khí dám tự phê bình và phê bình với tinh thần thật thàthành khẩn, trung thực và triệt để với mục đích “để cùng nhau tiến bộ, để đi đến càng đoàn kết”, “cốt để sửa đổi cách làm việc cho tốt hơn, đúng hơn”, kịp thời uốn nắn, điều chỉnh cho phù hợp với thực tế và chịu trách nhiệm đến cùng với quyết định của mình.
Dám đổi mới sáng tạo: Sáng tạo là những suy nghĩ, trăn trở, tìm tòi và học hỏi để tìm ra cái mới, cách làm mới, những cách thức giải quyết tốt nhất để đạt được mục tiêu cách mạng phù hợp với điều kiện thực tế của dân tộc, của nhân dân và xu thế phát triển của thời đại. Hồ Chí Minh chính là tấm gương đổi mới và sáng tạo. Người cho rằng: “Trong công cuộc kháng chiến, kiến quốc: Dù đau khổ đến đâu mặc lòng, ai cũng phải trổ hết tài năng, làm hết nhiệm vụ để sáng tạo tất cả cái gì có thể giúp ích cho sự kháng chiến, để làm cho mọi việc đều được tăng tiến”[26]. Trong công cuộc xây dựng và kiến thiết nước nhà, Người chỉ rõ: “Tiến nhanh, tiến mạnh, tiến vững chắc lên chủ nghĩa xã hội. Tiến nhanh, tiến mạnh là quy luật của chủ nghĩa xã hội. Muốn sản xuất được nhiều, nhanh, tốt, rẻ, thì phải có nhiệt tình cách mạng. Nhưng lại còn phải hiểu biết và nắm vững khoa học. Mỗi người lao động cần có tinh thần dám nghĩ dám làm, vươn lên hàng đầu, thành người lao động tiên tiến… Chỉ cần chúng ta có đầy đủ ý thức làm chủ, tinh thần tập thể, kỷ luật và ra sức học tập, nâng cao trình độ văn hóa, kỹ thuật, có tinh thần sáng tạo, tìm tòi cái mới, học tập cái mới, ủng hộ cái mới, thực hiện cái mới thì việc gì chúng ta cũng làm được”[27]. Người cũng căn dặn thanh niên cần phải “có tinh thần và gan dạ sáng tạo, cần phải có chí khí hăng hái và tinh thần tiến lên, vượt mọi khó khăn, gian khổ để tiến mãi không ngừng”[28].
Dám đương đầu với khó khăn, thử thách và dám hành động vì lợi ích chung: là phẩm chất dũng cảm, biết đặt lợi ích chung của Tổ quốc, của Nhân dân lên trên hết, trước hết; xung phong và sẵn sàng nhận, thực hiện những nhiệm vụ khó khăn, gian khổ, tận tâm, tận lực phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân; lấy lợi ích của tập thể và quốc gia dân tộc làm mục tiêu chi phối mọi hoạt động tu dưỡng, rèn luyện, học tập, công tác, không xâm phạm, gây hại đến lợi ích chung. Đúng như Chủ tịch Hồ Chí Minh đã tổng kết: “Chính vì đã sẵn sàng quên mình cho sự nghiệp cách mạng của Đảng, cho độc lập, tự do của Tổ quốc, cho lý tưởng cộng sản cao đẹp mà biết bao đảng viên cộng sản và quần chúng nhân dân đã trở thành anh hùng, liệt sĩ, chiến sĩ mẫu mực, tiêu biểu trên mặt trận sản xuất công nghiệp, nông nghiệp, trong chiến đấu giải phóng dân tộc, bảo vệ Tổ quốc và trong các ngành hoạt động khác. Họ không đòi danh, đòi lợi. Họ một lòng một dạ phục vụ Đảng, phục vụ nhân dân. Họ là những đảng viên bình thường nhưng phẩm chất cách mạng của họ thật là cao quý. Đảng ta rất tự hào có những người con xứng đáng ấy của giai cấp và của dân tộc”3. Đối với thanh niên, Người nhắc nhở và mong muốn: “Thanh niên phải xung phong đến những nơi khó khăn gian khổ nhất, nơi nào người khác làm ít kết quả, thanh niên phải xung phong đến làm cho tốt”[29]. Người cũng căn dặn thêm “Thanh niên xung phong phải có mục đích… phải đoàn kết mọi người, già trẻ nhất trí, cùng nhau hăng hái xung phong”[30], và khi đã “Bàn việc gì, quyết nghị điều gì cũng phải thiết thực và cụ thể. Không nên chỉ nói chung chung. Mỗi khi gặp khó khăn trong công tác, phải biết dựa vào đường lối, chính sách của Đảng, dựa vào sáng kiến và lực lượng của quần chúng, có quyết tâm cao, thì khó khăn gì cũng sẽ vượt được và mọi việc nhất định thành công”[31].

- Quan điểm Hồ Chí Minh về biện pháp thực hiện dám nghĩ, dám nói, dám làm, dám chịu trách nhiệm, dám đổi mới sáng tạo, dám đương đầu với khó khăn, thử thách và dám hành động vì lợi ích chung

Một là, “phải nâng cao sáng kiến và lòng hăng hái” của mỗi cán bộ, đảng viên và nhân dân trong thực thi chức trách, nhiệm vụ được giao. Đặc biệt là phải phát huy dân chủ cao độ, bởi theo Người chính là “chiếc chìa khoá vạn năng” để giải quyết mọi vấn đề. Người nêu rõ: “Dân chủ, sáng kiến, hăng hái, ba điều đó rất quan hệ với nhau. Có dân chủ mới làm cho cán bộ và quần chúng đề ra sáng kiến. Những sáng kiến đó được khen ngợi, thì những người đó càng thêm hăng hái, và người khác cũng học theo. Và trong khi tăng thêm sáng kiến và hăng hái làm việc, thì những khuyết điểm lặt vặt, cũng tự sửa chữa được nhiều”[32]. Đồng thời, Người cũng khẳng định: “Bất kỳ ai, nếu có quyết tâm làm ích lợi cho quần chúng, lại chịu học, chịu hỏi quần chúng, óc chịu khó nghĩ, tay chịu khó làm, thì nhất định có sáng kiến, nhất định làm được những việc có ích cho loài người. Chúng ta cần phải nâng cao mở rộng dân chủ ra, khuyên gắng cán bộ và đảng viên, bày cho họ suy nghĩ, bày cho họ học hỏi quần chúng, cổ động họ tìm tòi, đề nghị, làm những việc ích lợi cho quần chúng. Khi họ đã có ít nhiều sáng kiến, thì giúp đỡ cho họ phát triển, khen ngợi cho họ thêm hăng hái. Như thế, thì những tính lười, tính “gặp chăng hay chớ” ngày càng bớt, mà sáng kiến và tính hăng hái ngày càng nhiều thêm”[33].
Để phát huy được tinh thần dám nghĩ, dám nói, dám làm, dám chịu trách nhiệm, sáng tạo, dám đương đầu với khó khăn, thử thách và dám hành động vì lợi ích chung cần khuyến khích sáng kiến, đổi mới, sáng tạo và cổ vũ lòng hăng hái của cán bộ, đảng viên, nhân dân. Để thực hiện có chất lượng, hiệu quả, đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp cách mạng, Người căn dặn: “Cán bộ và đảng viên lại càng phải có tinh thần ấy, phải gạt bỏ những thái độ sai lầm như: thoả mãn với thành tích bước đầu, bảo thủ, tự mãn với những kinh nghiệm đã có, có ít nhiều tri thức thì kiêu căng, coi khinh quần chúng, hoài nghi những sáng kiến bình thường của quần chúng; lười biếng, không tích cực học tập cái mới…”[34].
Hai là, có cơ chế khuyến khích, động viên và tạo điều kiện thuận lợi để “… cho cán bộ cả gan nói, cả gan đề ra ý kiến”, “khiến cho cán bộ có gan phụ trách, có gan làm việc”. Theo Hồ Chí Minh “Người lãnh đạo muốn biết rõ ưu điểm và khuyết điểm của mình, muốn biết công tác của mình tốt hay xấu, không gì bằng khuyên cán bộ mình mạnh bạo đề ra ý kiến và phê bình. Như thế, chẳng những không phạm gì đến uy tín của người lãnh đạo mà lại tỏ ra dân chủ thật thà trong Đảng”[35]. Và bởi “Cố nhiên việc hay hay dở, một phần do cán bộ đủ năng lực hay không. Nhưng một phần cũng do cách lãnh đạo đúng hay không. Năng lực của người không phải hoàn toàn do tự nhiên mà có mà một phần lớn do công tác, do tập luyện mà có. Lãnh đạo khéo, tài nhỏ có thể hoá ra tài to. Lãnh đạo không khéo, tài to cũng hoá ra tài nhỏ”[36].
Để khuyến khích, động viên cán bộ hăng hái dám nghĩ, dám nói, dám làm, dám chịu trách nhiệm, vượt qua những khó khăn, thử thách, dám hành động để hướng đến mục tiêu chung, Hồ Chí Minh chỉ dẫn và thực hành “năm cách” đối với cán bộ, đó là: “a) Chỉ đạo - Thả cho họ làm, thả cho họ phụ trách, dù sai lầm chút ít cũng không sợ. Nhưng phải luôn luôn tuỳ theo hoàn cảnh mà bày vẽ cho họ về phương hướng công tác, cách thức công tác, để cho họ phát triển năng lực và sáng kiến của họ, đúng với đường lối của Đảng. b) Nâng cao - Luôn luôn tìm cách cho họ học thêm lý luận và cách làm việc, làm cho tư tưởng, năng lực của họ ngày càng tiến bộ. c) Kiểm tra - Không phải ngày nào cũng kiểm tra. Nhưng thường thường kiểm tra để giúp họ rút kinh nghiệm, sửa chữa khuyết điểm, phát triển ưu điểm. Giao công việc mà không kiểm tra, đến lúc thất bại mới chú ý đến. Thế là không biết yêu dấu cán bộ. d) Cải tạo - Khi họ sai lầm thì dùng cách “thuyết phục” giúp cho họ sửa chữa. Không phải một sai lầm to lớn, mà đã vội cho họ là “cơ hội chủ nghĩa”, đã “cảnh cáo”, đã “tạm khai trừ”. Những cách quá đáng như thế đều không đúng. đ) Giúp đỡ - Phải cho họ điều kiện sinh sống đầy đủ mà làm việc. Khi họ đau ốm, phải có thuốc thang. Tuỳ theo hoàn cảnh mà giúp họ giải quyết vấn đề gia đình. Những điều đó rất quan hệ với tinh thần của cán bộ, và sự thân ái đoàn kết trong Đảng”[37].
Bên cạnh đó, Người cũng lưu ý: “Khi giao công tác cho cán bộ cần phải chỉ đạo rõ ràng, sắp đặt đầy đủ. Vạch rõ những điểm chính, và những khó khăn có thể xảy ra. Những vấn đề đã quyết định rồi, thả cho họ làm, khuyên gắng họ cứ cả gan mà làm... Việc gì cấp trên cũng nhúng vào, cán bộ cũng như một cái máy, việc gì cũng chờ mệnh lệnh, sinh ra ỷ lại, mất hết sáng kiến. Trước khi trao công tác, cần phải bàn kỹ với cán bộ. Nếu họ gánh không nổi, chớ miễn cưỡng trao việc đó cho họ. Khi đã trao cho họ phải hoàn toàn tin họ. Không nên sớm ra lệnh này, trưa đổi lệnh khác. Nếu không tin cán bộ, sợ họ làm không được, rồi việc gì mình cũng nhúng vào. Kết quả thành chứng bao biện, công việc vẫn không xong. Cán bộ thì vơ vẩn cả ngày, buồn rầu, nản chí. Phải đào tạo một mớ cán bộ phụ trách, có gan làm việc, ham làm việc. Có thế Đảng mới thành công. Nếu đào tạo một mớ cán bộ nhát gan, dễ bảo “đập đi, hò đứng”, không dám phụ trách. Như thế là một việc thất bại cho Đảng”[38].
Ba là, “mở rộng dân chủ” và “làm theo cách quần chúng”. Người khẳng định: “nước ta là nước dân chủ, địa vị cao nhất là dân”, “dân chủ là của quý báu nhất của nhân dân”[39], “thực hành dân chủ là cái chìa khoá vạn năng có thể giải quyết mọi khó khăn”[40]. Vì thế, “… phải phát triển quyền làm chủ và sinh hoạt chính trị của toàn dân”, “Phải thật sự tôn trọng quyền làm chủ của nhân dân”,“thực hành dân chủ để làm cho dân ai cũng được hưởng quyền dân chủ tự do”[41], biết dùng quyền dân chủ của mình, dám nói, dám làm. Theo Người, để cán bộ, đảng viên hiểu thấu và thực hành dân chủ phải dựa hẳn vào quần chúng, đi đúng đường lối quần chúng, phải biết làm cho quần chúng “mở miệng ra”.
Cũng như thế, để cán bộ, đảng viên có đủ dũng khí, tự tin dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm, dám hành động vì lợi ích chung của dân tộc, của nhân dân, không gì khác là phải dựa vào “bệ đỡ” chính là Nhân dân. Người nhắn nhủ: “Việc gì cũng hỏi ý kiến dân chúng, cùng dân chúng bàn bạc. Giải thích cho dân chúng hiểu rõ. Được dân chúng đồng ý. Do dân chúng vui lòng ra sức làm”[42]. Đặc biệt là “Chớ khư khư giữ theo “sáo cũ” mà “Luôn luôn phải theo tình hình thiết thực của dân chúng nơi đó và lúc đó, theo trình độ giác ngộ của dân chúng, theo sự tình nguyện của dân chúng mà tổ chức họ, tuỳ hoàn cảnh thiết thực trong nơi đó, và lúc đó, đưa ra tranh đấu. Chúng ta tuyệt đối không nên theo đuôi quần chúng. Nhưng phải khéo tập trung ý kiến của quần chúng, hoá nó thành cái đường lối để lãnh đạo quần chúng. Phải đem cách nhân dân so sánh, xem xét, giải quyết các vấn đề, mà hoá nó thành cách chỉ đạo nhân dân. “Phải đưa chính trị vào giữa dân gian”. Trước kia, việc gì cũng từ “trên dội xuống”. Từ nay việc gì cũng phải từ “dưới nhoi lên”. Làm như thế, chính sách, cán bộ và nhân dân sẽ nhất trí, mà Đảng ta sẽ phát triển rất mau chóng và vững vàng”[43].
Bốn là, ra sức thực hành “cách phê bình sáng suốt, khôn khéo, như chiếu tấm gương cho mọi người soi thấu những khuyết điểm của mình, để tự mình sửa chữa”[44]. Cách phê bình mà Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ dẫn cho chúng ta để phát huy tinh thần dám nghĩ, dám nói, dám làm, dám chịu trách nhiệm, vượt qua khó khăn, thử thách và hành động vì mục tiêu chung của cách mạng đó là phải nhận thức, thực hành cho đúng và khéo “Mục đích phê bình cốt để giúp nhau sửa chữa, giúp nhau tiến bộ. Cốt để sửa đổi cách làm việc cho tốt hơn, đúng hơn. Cốt đoàn kết và thống nhất nội bộ. Vì vậy, phê bình mình cũng như phê bình người phải ráo riết, triệt để, thật thà, không nể nang, không thêm bớt. Phải vạch rõ cả ưu điểm và khuyết điểm. Đồng thời, chớ dùng những lời mỉa mai, chua cay, đâm thọc. Phê bình việc làm, chứ không phải phê bình người. Những người bị phê bình thì phải vui lòng nhận xét để sửa đổi, không nên vì bị phê bình mà nản chí, hoặc oán ghét”[45].
Hồ Chí Minh sớm nhận thức sâu sắc rằng: “Đảng ta cũng có khuyết điểm”, bởi “Vì thay đổi xã hội cũ thành xã hội mới không phải là dễ. Cũng như phá một cái nhà cũ, xây dựng một lâu đài mới. Trong lúc đang xây dựng lâu đài, không tránh khỏi có gạch vụn, mùn cưa, v.v.. Xây dựng chủ nghĩa xã hội cũng thế, không hoàn toàn tránh được khuyết điểm, sai lầm. Nhưng lúc nào có sai lầm, Đảng ta dũng cảm nhận sai lầm và quyết tâm sửa chữa”. Và để sửa chữa, dám chịu trách nhiệm và quyết tâm hành động hướng đến mục tiêu cuối cùng thì “liều thuốc” mà Người chỉ ra đó chính là: “Đảng ta có một vũ khí sắc bén để làm cho đảng viên tiến bộ, làm cho Đảng ngày càng mạnh là tự phê bình và phê bình. Lênin có nói rằng: Chỉ có hai hạng người không mắc khuyết điểm: là đứa bé còn ở trong bụng mẹ và người chết đã bỏ vào quan tài. Có hoạt động thì khó tránh khỏi có khuyết điểm. Nhưng khi có khuyết điểm thì phải thật thà tự phê bình, hoan nghênh người khác phê bình mình và kiên quyết sửa chữa. Chủ nghĩa cá nhân không dám tự phê bình, không muốn người ta phê bình mình, không kiên quyết sửa chữa. Vì vậy mà thoái bộ, chứ không tiến bộ được”[46]
Năm là, phải “khéo kiểm soát”, bởi Người cho rằng: “Chính sách đúng là nguồn gốc của thắng lợi... Khi đã có chính sách đúng, thì sự thành công hoặc thất bại của chính sách đó là do nơi cách tổ chức công việc, nơi lựa chọn cán bộ, và do nơi kiểm tra. Nếu ba điều ấy sơ sài, thì chính sách đúng mấy cũng vô ích”[47]. Vì vậy, “Nếu tổ chức việc kiểm tra cho chu đáo thì cũng như có ngọn đèn “pha”. Bao nhiêu tình hình, bao nhiêu ưu điểm và khuyết điểm, bao nhiêu cán bộ chúng ta đều thấy rõ. Có thể nói rằng: chín phần mười khuyết điểm trong công việc của chúng ta là vì thiếu sự kiểm tra”[48]. Công tác kiểm tra là một nội dung quan trọng được ví như sợi chỉ đỏ xuyên suốt các khâu trong quy trình lãnh đạo của Đảng. Lãnh đạo phải có kiểm tra, lãnh đạo mà không kiểm tra thì coi như không lãnh đạo. Thông qua công tác kiểm tra để kịp thời phát hiện và khắc phục bệnh quan liêu, tham nhũng, lãng phí, bè phái trong Đảng; loại trừ các phần tử cơ hội, thoái hóa, biến chất ra khỏi Đảng; nâng cao phẩm chất đạo đức cho đội ngũ cán bộ, đảng viên; góp phần bảo đảm cho đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng được xác định đúng đắn, kiểm nghiệm chính xác và được triển khai tổ chức thực hiện nghiêm túc, triệt để trong thực tế. Và, qua đó, tạo ra cơ chế, khung khổ chính trị vững chắc để bảo vệ cán bộ dám nghĩ, dám nói, dám làm, dám chịu trách nhiệm, dám hành động vì mục tiêu chung của sự nghiệp cách mạng.
Sáu là, đối với thanh niên, Hồ Chí Minh chỉ dẫn một biện pháp để thanh niên tự tin, bản lĩnh, dám nghĩ, dám làm, tiên phong, đổi mới và sáng tạo, đóng góp tích cực cho sự nghiệp cách mạng của Đảng và Nhân dân, đó là: “Thanh niên muốn cho các ngành xem trọng mình, trước hết tự mình phải làm việc cho tốt. Những anh hùng phi công vũ trụ Liên Xô như: các đồng chí Gagarin, Titốp, Nicôlaép, Papôvích, sở dĩ cả thế giới đều biết tên là vì họ đã hoàn thành thắng lợi nhiệm vụ cực kỳ khó khăn mà Đảng và nhân dân đã giao cho. Thanh niên phải luôn luôn rèn luyện đạo đức cách mạng. Đạo đức cách mạng có thể tóm tắt trong mấy điểm:
- Trung thành: Trọn đời trung thành với sự nghiệp cách mạng, với Tổ quốc, với Đảng, với giai cấp.
- Dũng cảm: Không sợ khổ, không sợ khó, thực hiện: “Đâu cần thanh niên có, việc gì khó thanh niên làm”, “gian khổ thì đi trước, hưởng thụ sau mọi người”.
- Khiêm tốn: Không nên tự cho mình là tài giỏi, không khoe công, không tự phụ”[49].
2. Tấm gương Hồ Chí Minh về dám nghĩ, dám nói, dám làm, dám chịu trách nhiệm, dám đổi mới sáng tạo, dám đương đầu với khó khăn, thử thách và dám hành động vì lợi ích chung
Chủ tịch Hồ Chí Minh là hiện thân sinh động cho tinh thần đổi mới sáng tạo, dám nghĩ, dám nói, dám làm, dám hành động, dám chịu trách nhiệm vì lợi ích của dân tộc, của Nhân dân. Khi còn là một thanh niên 21 tuổi với nhiệt huyết của tuổi trẻ nặng lòng với quê hương, đất nước, với tinh thần yêu nước, thương dân Người đã quyết định ra đi tìm đường cứu nước. Sự kiện chàng thanh niên yêu nước Nguyễn Tất Thành rời Bến cảng Nhà Rồng ngày 05 tháng 6 năm 1911 làm phụ bếp trên con tàu Latouche Tréville, bắt đầu cuộc hành trình vạn dặm dám dấn thân, dám hành động, thông qua lao động và bằng con đường “vô sản hóa”, đi khắp các châu lục, đại dương, qua hơn 30 nước và các vùng lãnh thổ khác nhau, lao động, học tập và tranh đấu trong suốt chặng đường dài, vượt qua không biết bao nhiêu những khó khăn, gian khổ, hiểm nguy, kiên trì và nhẫn nại, bền bỉ và hy sinh để tìm ra con đường cứu nước là con đường cách mạng vô sản, mở đầu cho sự thay đổi số phận của dân tộc và nhân dân ta.
Từ mục đích và động cơ cao thượng tìm đường cứu nước, cứu dân, Nguyễn Ái Quốc với ý chí, nghị lực phi thường, với trí tuệ mẫn tiệp và tinh thần dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm, vượt qua khó khăn, thử thách, độc lập, sáng tạo, từ đó, Người đã dám hành động để chọn đường, nhận đường và cuối cùng trở thành người dẫn đường cho Đảng ta, dân tộc ta trên “Đường Kách mệnh”. Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh là biểu tượng kiệt xuất của một lãnh tụ cách mạng có tầm nhìn xa trông rộng, có bản lĩnh kiên định, vững vàng, nhất là bình tĩnh, sáng suốt vượt qua mọi thử thách hiểm nghèo của hoàn cảnh, hành động sáng tạo, dũng cảm với niềm tin mãnh liệt vào sức mạnh vô địch của Nhân dân, vào chiến thắng của lực lượng cách mạng. Trí tuệ khoa học, đạo đức cách mạng tận trung với nước, tận hiếu với dân, kết hợp nhuần nhuyễn chiến lược với sách lược và phương pháp, thấm nhuần chủ nghĩa lạc quan cách mạng, nắm bắt và dự báo sáng suốt xu thế của lịch sử... là những phẩm chất và nhân tố góp phần làm nên đặc tính cách mạng trong tư tưởng Hồ Chí Minh.
Nhờ có tinh thần dám nghĩ, dám nói, dám làm, sáng tạo, dám hành động mà trong suốt chặng đường tìm đường cứu, cứu dân ấy, Hồ Chí Minh đã học tập, tiếp thu, nắm bắt đúng quy luật vận động khách quan và yêu cầu phát triển của cách mạng Việt Nam, không lệ thuộc, phụ thuộc vào “cái có sẵn”, hoặc chịu áp lực của các nhân tố tác động “từ bên ngoài” nào. Để có được tư tưởng, phong cách độc lập tự chủ, sáng tạo, mọi suy nghĩ của Hồ Chí Minh đều lấy thực tế Việt Nam gắn với những biến đổi của thế giới, của thời đại làm điểm xuất phát, lấy cải tạo hiện thực Việt Nam làm mục tiêu. Để có được tư tưởng, phong cách độc lập, tự chủ, Hồ Chí Minh không ngừng học tập, rèn luyện, quyết đoán, hành động để tiếp nhận những tri thức mới, không bị hòa tan, bắt chước, mà tiếp thu một cách chọn lọc, có phê phán, không phủ định giản đơn. Nguời không ngừng mở rộng tư duy, tìm hiểu và nghiên cứu những tư tưởng, học thuyết đã có, những kinh nghiệm thành bại của phong trào yêu nước Việt Nam và các cuộc cách mạng các nước; luôn so sánh, lựa chọn để tìm ra cái mới, phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh của đất nước. Người nắm vững linh hồn của chủ nghĩa Mác - Lênin là phép biện chứng duy vật để vận dụng sáng tạo và phát triển học thuyết cách mạng. Vận dụng khoa học ấy vào điều kiện cụ thể của nước ta; tránh được những giáo điều, bảo thủ. Chính tinh thần dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm cùng với tư duy độc lập, tự chủ, sáng tạo, nhạy bén của Hồ Chí Minh đã nắm bắt và phản ánh đúng quy luật vận động, phát triển của cách mạng Việt Nam, vì vậy, những quan điểm ấy của Người đã mở đường, dẫn đường, soi sáng và định hướng cho cách mạng Việt Nam không ngừng tiến lên phía trước (từ chuẩn bị mọi điều kiện để thành lập Đảng, mang lại thắng lợi của cách mạng tháng Tám với tinh thần dù phải hy sinh đến giọt máu cuối cùng, quyết không lùi bước; đến việc khai sinh nước Việt Nam dân chủ cộng hòa; kháng chiến chống thực dân Pháp thắng lợi là tiếp tục thể hiện tinh thần dám nghĩ, dám làm, tư duy sáng tạo của Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng ta, với quyết tâm sắt đá “Quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh” để viết nên thiên sử vàng Điện Biên Phủ năm 1954 “Lừng lẫy năm châu, chấn động địa cầu”. Cách mạng Việt Nam bước vào thời kỳ mới: Xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc, hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền Nam, tiến tới thống nhất đất nước. Và, đó còn là tinh thần, quyết tâm sắt đá đánh Mỹ và thắng Mỹ của Chủ tịch Hồ Chí Minh cùng Trung ương Đảng trong bối cảnh đất nước gặp vô vàn khó khăn thể hiện bản lĩnh, trí tuệ Việt Nam, dám nghĩ, dám nói, dám làm, không lùi bước trước khó khăn, trở ngại, dám hành động để giành thắng lợi cuối cùng,…).
Có thể khẳng định, tinh thần tiên phong, dám nghĩ, dám nói, dám làm, dám chịu trách nhiệm và dám hành động đối với Hồ Chí Minh được thể hiện ở một nhà chính trị lão luyện, một nhân cách văn hoá cao thượng, một tấm gương đạo đức sáng ngời và đó là một bản lĩnh chính trị của người cộng sản Hồ Chí Minh thông qua cuộc đời oanh liệt, đầy gian khổ hy sinh, vô cùng cao thượng và phong phú, vô cùng trong sáng và đẹp đẽ - con người đã cống hiến trọn đời mình cho sự nghiệp cách mạng của nhân dân ta và nhân dân thế giới. Và đây cũng chính là những gì mà mỗi chúng ta, nhất là thế hệ trẻ cần ra sức học tập và làm theo trong thực hiện chức trách, nhiệm vụ được giao, thể hiện trách nhiệm của mình với Đảng, với dân tộc, với Nhân dân hiện nay.
3. Đảng Cộng sản Việt Nam vận dụng tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh về dám nghĩ, dám nói, dám làm, dám chịu trách nhiệm, dám đổi mới sáng tạo, dám đương đầu với khó khăn, thử thách và dám hành động vì lợi ích chung
Đường lối đổi mới sáng tạo, dám nghĩ, dám nói, dám làm, dám chịu trách nhiệm, dám hành động vì lợi ích chung của đất nước là kết quả quá trình tìm tòi, thử nghiệm, bám sát thực tiễn, vừa làm vừa tổng kết, phấn đấu gian khổ của Đảng và Nhân dân ta. Đường lối đó được hình thành dựa trên những thử nghiệm và quyết sách quan trọng trong đấu tranh giành độc lập, giải phóng dân tộc và tiến lên xây dựng xã hội chủ nghĩa.

Trong đấu tranh giải phóng dân tộc, với ý chí tư lực tự cường, phát huy truyền thống đoàn kết của dân tộc và tinh thần đổi mới sáng tạo, dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm, Đảng ta đã sáng suốt lãnh đạo Nhân dân vượt qua muôn vàng khó khăn, thách thức hiểm nghèo làm nên những chiến thắng vẻ vang đi vào lịch sử của dân tộc và nhân loại như: Cách mạng Tháng Tám năm 1945, chiến thắng Điện Biên Phủ năm 1954, Chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử, giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước năm 1975,v.v…

Tinh thần ấy tiếp tục được phát huy mạnh mẽ trong thời kỳ cả nước bước vào xây dựng đất nước, tiến lên xã hội chủ nghĩa. Nghị quyết Hội nghị Trung ương sáu khóa IV với những quyết sách đổi mới, đột phá làm cho sản xuất “bung ra”: Chỉ thị số 100-CT/TW, ngày 13/01/1981 của Ban Bí thư khóa IV về cải tiến công tác khoán, mở rộng “Khoán sản phẩm đến nhóm lao động và người lao động” trong hợp tác xã nông nghiệp; các Quyết định 25/CP và 26/CP của Thủ tướng Chính phủ về nhiều nguồn cân đối và ba phần kế hoạch. Đại hội V của Đảng xác định lại thứ tự ưu tiên trong phát triển kinh tế, khẳng định nông nghiệp là mặt trận hàng đầu; Nghị quyết Hội nghị Trung ương tám khóa V (tháng 6/1985) về giá - lương - tiền với chủ trương xóa bỏ cơ chế tập trung quan liêu, bao cấp, thực hiện cơ chế một giá; Kết luận của Bộ Chính trị khóa V (tháng 8/1986) về một số vấn đề lớn thuộc phát triển kinh tế, như xác định cơ cấu kinh tế nhiều thành phấn, sử dụng đúng quan hệ hàng hóa - tiền tệ, xóa bỏ cơ chế tập trung quan liêu, bao cấp…Những thử nghiệm ban đầu nêu trên là tiền đề quan trọng hình thành đường lối đổi mới của Đảng.

Đại hội VI của Đảng (tháng 12/1986) đề ra đường lối đổi mới toàn diện đất nước, bao gồm đổi mới tư duy, đổi mới tổ chức cán bộ, đổi mới phương pháp lãnh đạo và phong cách công tác. Đại hội đặc biệt nhấn mạnh phải đổi mới tư duy, trước hết là tư duy kinh tế; phải nắm vững quy luật khách quan, lấy dân làm gốc; phải “nhìn thẳng vào sự thật, đánh giá đúng sự thật, nói rõ sự thật”. Đại hội khẳng định nước ta đang ở chặng đường đầu tiên của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, cần tiếp tục xây dựng những tiền đề cần thiết cho việc đẩy mạnh công nghiệp hóa, tiến hành đổi mới chính sách kinh tế gắn với đổi mới chính sách xã hội; chủ trương kiên quyết xóa bỏ cơ chế tập trung quan liêu, bao cấp, xây dựng Đảng ngang tầm nhiệm vụ chính trị của một đảng cầm quyền, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng; nâng cao hiệu quả quản lý của Nhà nước; phát huy quyền làm chủ của Nhân dân. Đại hội đánh dấu một bước ngoặt có ý nghĩa cách mạng trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta, tạo ra bước đột phá lớn, toàn diện, đem lại luồng sinh khí mới trong xã hội, làm xoay chuyển tình hình, đưa đất nước tiến lên,v.v…

Nhìn lại suốt tiến trình cách mạng Việt Nam, đặc biệt là từ khi Đảng ta tiến hành công cuộc đổi mới, có rất nhiều cán bộ, đảng viên rất tâm huyết, vì nước, vì dân, có tinh thần tiên phong, dám nghĩ, dám làm, có bản lĩnh chính trị, nhận thức và hành vi đúng, luôn kiên định đổi mới và sáng tạo nhằm đạt được mục tiêu vì lợi ích chung. Những đồng chí ghi dấu ấn đậm trong công cuộc đổi mới đó là: Tổng Bí thư Trường Chinh với đổi mới tư duy kinh tế, khởi xướng công cuộc đổi mới đất nước; Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh chủ trương động viên, khuyến khích mọi người lao động, mọi năng lực sản xuất, mọi thành phần kinh tế sản xuất bung ra, cải tiến lưu thông, phân phối để thúc đẩy sản xuất phát triển, với “những việc cần làm ngay”; Thủ tướng Võ Văn Kiệt, trong kháng chiến kiên cường bám dân, bám đất; trong hòa bình, xây dựng đất nước đã mạnh dạn vượt qua tư duy cũ kỹ, lạc hậu, có nhiều ý tưởng, đề xuất đã được đưa vào văn kiện Đại hội, góp phần hình thành đường lối đổi mới toàn diện của Đảng; Bí thư Tỉnh ủy Vĩnh Phúc Kim Ngọc - người đề ra nhiều chủ trương, chính sách đổi mới, sáng tạo, “phá rào” trong đổi mới nông nghiệp; Bí thư Tỉnh ủy Long An Nguyễn Văn Chính có quyết định đổi mới tư duy, thực hiện “cơ chế một giá theo thị trường”; Chủ tịch UBND thành phố Hồ Chí Minh Mai Chí Thọ và nhiều lão thành cách mạng đã mạnh dạn cho phép nhà máy, xí nghiệp thử nghiệm “Kế hoạch 3 phần” của bà Nguyễn Thị Ráo phá rào thu mua gạo, bán gạo một giá đầu tiên trong cả nước… Những tấm gương tiêu biểu ấy sẽ là động lực để cán bộ, đảng viên và Nhân dân hôm nay soi chiếu và tiếp tục phát huy tinh thần năng động, sáng tạo, dám nghĩ, dám nói, dám làm, dám vượt qua những khó khăn thử thách, dám chịu trách nhiệm vì lợi ích chung của nhân dân, đất nước.

Tiếp tục học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh về dám nghĩ, dám nói, dám làm, dám chịu trách nhiệm, dám đổi mới sáng tạo, dám đương đầu với khó khăn, thử thách và dám hành động vì lợi ích chung, trong thời gian qua, Đảng, Nhà nước đã ban hành nhiều chủ trương, chính sách về việc khuyến khích và bảo vệ cán bộ năng động, sáng tạo, dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm với mục tiêu khơi dậy và phát huy lòng yêu nước, ý thức trách nhiệm cống hiến, phục vụ của đội ngũ cán bộ với tinh thần đổi mới sáng tạo, dám nghĩ, dám làm, dám dấn thân, dám chịu trách nhiệm.

Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng xác định: “Phải thấm nhuần sâu sắc quan điểm công tác cán bộ là nhiệm vụ “Then chốt” của công tác xây dựng Đảng, có liên quan đến sự sống còn của Đảng và vận mệnh của chế độ; cán bộ là cái gốc của mọi công việc, là nhân tố quyết định sự thành bại của cách mạng. Vì vậy, phải đặc biệt coi trọng xây dựng đội ngũ cán bộ các cấp, nhất là cấp chiến lược và người đứng đầu thật sự có đức, có tài, có uy tín trong Đảng và Nhân dân”[50]. Từ đó, Đại hội đề ra nhiệm vụ, giải pháp trong thời gian tới, đó chính là: “Tập trung xây dựng đội ngũ cán bộ các cấp, nhất là cấp chiến lược, người đứng đầu các cấp đủ phẩm chất, năng lực, uy tín, ngang tầm nhiệm vụ. Có chính sách khuyến khích và cơ chế phù hợp bảo vệ những cán bộ, đảng viên có ý chí chiến đấu cao, gương mẫu thực hiện nguyên tắc của Đảng và pháp luật của Nhà nước, dám nghĩ, dám nói, dám làm, dám chịu trách nhiệm, dám đổi mới sáng tạo, dám đương đầu với khó khăn, thử thách và quyết liệt trong hành động vì lợi ích chung”[51].

Đặc biệt, ngày 22/9/2021, Bộ Chính trị đã ban hành Kết luận số 14-KL/TW về chủ trương khuyến khích và bảo vệ cán bộ năng động, sáng tạo vì lợi ích chung (Kết luận số 14-KL/TW) đã xác định nhiệm vụ cần đặc biệt quan tâm trong giai đoạn hiện nay là xây dựng đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý đủ phẩm chất, năng lực và uy tín, có bản lĩnh chính trị, trí tuệ, gương mẫu, quyết tâm đổi mới sáng tạo, dám nghĩ, dám làm, dám đột phá, sẵn sàng đương đầu với khó khăn, thử thách, luôn nỗ lực hành động vì lợi ích chung. Đây là cơ sở chính trị quan trọng để nghiên cứu “thể chế hóa” thành pháp luật đối với việc khuyến khích, bảo vệ cán bộ năng động, sáng tạo, dám nghĩ, dám làm nói chung và cán bộ trẻ dám nghĩ, dám làm nói riêng. Kết luận số 14-KL/TW của Bộ Chính trị không chỉ khơi dậy mạnh mẽ ý thức trách nhiệm, khát vọng cống hiến, tinh thần đổi mới, hết lòng, hết sức vì Nhân dân phục vụ của đội ngũ cán bộ mà còn là “lá chắn” để bảo vệ và khuyến khích cán bộ phát huy sở trường, tài năng, ý chí quyết đoán của mình trong công tác lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện nhiệm vụ được giao trước những điểm nghẽn, nút thắt trong cơ chế, chính sách và những vấn đề khó khăn, vướng mắc từ thực tiễn.
Tiếp tục thực hiện quan điểm chỉ đạo đó, Đảng ta đã ban hành Nghị quyết số 27-NQ/TW ngày 09/11/2022 của Hội nghị lần thứ sáu Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII về tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong giai đoạn mới, trong đó đã đặt ra các mục tiêu hướng tới: Hệ thống pháp luật dân chủ, công bằng, nhân đạo, đầy đủ, đồng bộ, thống nhất, kịp thời, khả thi, công khai, minh bạch, ổn định, dễ tiếp cận, “mở đường cho đổi mới sáng tạo”, phát triển bền vững và cơ chế tổ chức thực hiện pháp luật nghiêm minh, nhất quán và xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức “có đủ phẩm chất, năng lực, chuyên nghiệp, liêm chính, chí công, vô tư. Nghị quyết số 28-NQ/TW ngày 17/11/2022 của Hội nghị lần thứ sáu Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII về tiếp tục đổi mới phương thức lãnh đạo, cầm quyền của Đảng đối với hệ thống chính trị trong giai đoạn mới đề ra các nhiệm vụ đối với công tác cán bộ, trong đó yêu cầu: Thể chế chủ trương của Đảng về khuyến khích, bảo vệ cán bộ năng động, sáng tạo, dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm vì lợi ích chung,v.v...
Nhằm quán triệt và thể chế hoá các quan điểm của Đảng về vấn đề này, ngày 29/9/2023, Chính phủ ban hành Nghị định số 73/2023/NĐ-CP quy định về khuyến khích, bảo vệ cán bộ năng động, sáng tạo, dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm vì lợi ích chung. Nghị định quy định cán bộ năng động, sáng tạo, dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm là cán bộ, công chức lãnh đạo, quản lý, viên chức quản lý, người giữ chức danh, chức vụ và người đại diện phần vốn nhà nước tại doanh nghiệp theo quy định của Chính phủ có tư duy đổi mới, sáng tạo, dám làm, dám chịu trách nhiệm trong quá trình thực hiện chức trách, nhiệm vụ được giao, xuất phát từ yêu cầu, đòi hỏi cấp thiết của thực tiễn nhằm tháo gỡ, giải quyết những điểm nghẽn, nút thắt trong cơ chế, chính sách chưa được quy định trong văn bản quy phạm pháp luật của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, các bộ, cơ quan ngang bộ, địa phương, mang lại giá trị, hiệu quả thiết thực, tạo được chuyển biến mạnh mẽ, đóng góp tích cực vào sự phát triển chung. Đây được xem là “hành lang pháp lý” và “cơ chế đặc biệt” để cán bộ yên tâm dám nghĩ, dám làm, sẵn sàng đương đầu với khó khăn, thử thách, luôn nỗ lực hành động vì lợi ích chung, đồng thời góp phần ngăn ngừa, xử lý cán bộ lợi dụng chủ trương trên để làm trái, vụ lợi, trong Nghị định đã quy định cụ thể về nguyên tắc, điều kiện áp dụng, trình tự, thủ tục đề xuất và phê duyệt đề xuất đổi mới, sáng tạo; chính sách khuyến khích, biện pháp bảo vệ cán bộ năng động, sáng tạo và trách nhiệm của mỗi cán bộ, tổ chức, cơ quan trong đề xuất và thực hiện đề xuất đổi mới, sáng tạo, vì sự phát triển phồn vinh, hạnh phúc của đất nước, địa phương, đơn vị.

Phần thứ hai:
CÁN BỘ ĐOÀN HỌC TẬP VÀ LÀM THEO
TƯ TƯỞNG, ĐẠO ĐỨC, PHONG CÁCH HỒ CHÍ MINH
VỀ DÁM NGHĨ, DÁM NÓI, DÁM LÀM, DÁM CHỊU TRÁCH NHIỆM,
DÁM ĐỔI MỚI SÁNG TẠO, DÁM ĐƯƠNG ĐẦU VỚI KHÓ KHĂN,
THỬ THÁCH VÀ DÁM HÀNH ĐỘNG VÌ LỢI ÍCH CHUNG
 

1. Tinh thần dám nghĩ, dám nói, dám làm, dám chịu trách nhiệm, dám đổi mới sáng tạo, dám đương đầu với khó khăn, thử thách và dám hành động vì lợi ích chung của cán bộ, đoàn viên, thanh niên Việt Nam hiện nay

Thấm nhuần quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh: “Thanh niên là người chủ tương lai của nước nhà. Thật vậy nước nhà thịnh hay suy, yếu hay mạnh một phần lớn là do các thanh niên. Thanh niên muốn làm người chủ tương lai cho xứng đáng thì ngay hiện tại phải rèn luyện tinh thần và lực lượng của mình, phải ra làm việc để chuẩn bị cái tương lai đó”[52], trong nhiệm kỳ 2017 – 2022 vừa qua, hàng loạt các phong trào hành động cách mạng của Đoàn như “Thanh niên tình nguyện”, “Tuổi trẻ sáng tạo”, “Tuổi trẻ xung kích bảo vệ Tổ quốc”,… được triển khai đồng bộ, sâu rộng, hiệu quả[53]. Đặc biệt, phong trào “Tuổi trẻ sáng tạo” đã tập trung vào 4 nhóm lĩnh vực: Sáng tạo trong học tập, nghiên cứu khoa học; Sáng tạo trong lao động, sản xuất, kinh doanh; Sáng tạo trong công tác phục vụ nhân dân; Sáng tạo trong đời sống sinh hoạt với 6 triệu ý tưởng sáng kiến, đề xuất đổi mới sáng tạo và gần 6 nghìn dự án khởi nghiệp của thanh niên. Bên cạnh đó, phong trào “Tuổi trẻ xung kích bảo vệ Tổ quốc” tập trung vào bốn nhóm giải pháp xung kích trong thực hiện các nhiệm vụ quốc phòng, an ninh, tham gia xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân, thực hiện các chương trình, dự án hướng về biển, đảo, bảo vệ chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, tham gia đảm bảo an ninh trật tự trên địa bàn dân cư,… Ở mỗi lực lượng thanh niên lại phát động và thực hiện các phong trào nhằm khơi dậy tinh thần xung kích, dám nghĩ, dám làm, tiên phong, đổi mới vì sự nghiệp chung của cách mạng, của Nhân dân, tiêu biểu như “Thanh niên quân đội rèn đức, luyện tài, xung kích, sáng tạo, quyết thắng”, “Thanh niên Công an nhân dân học tập, thực hiện 6 điều Bác Hồ dạy – Xung kích, sáng tạo, tình nguyện, lập công vì an ninh Tổ quốc”, hàng loạt các nhiệm vụ, công trình, phần việc thanh niên được triển khai hiệu quả ở nhiều địa bàn khác nhau. Các phong trào đồng hành với thanh niên học tập, lập nghiệp, khởi nghiệp được quan tâm, coi trọng, qua đó đã phát huy được tinh thần sáng tạo, đổi mới với nhiều ý tưởng trong học tập, lao động, sản xuất, kinh doanh,v.v…
Trong bối cảnh mới hiện nay, dưới dự lãnh đạo của Đảng, sự dẫn dắt, tập hợp và đoàn kết của các cấp bộ Đoàn từ Trung ương đến cơ sở, đoàn viên, thanh niên nói chung và các cán bộ đoàn nói riêng với “trái tim đầy nhiệt huyết, với tinh thần sáng tạo, ham học hỏi và khát vọng cháy bỏng”[54] đã đoàn kết, đồng lòng, không ngừng phát huy tinh thần dám nghĩ, dám nói, dám làm, dám chịu trách nhiệm, sáng tạo, dám đương đầu với khó khăn, thử thách và dám hành động vì lợi ích chung, góp phần xứng đáng vào sự nghiệp cách mạng chung của Đảng, của dân tộc, đóng góp tích cực trong quá trình xây dựng, phát triển kinh tế - xã hội, văn hoá, an ninh, quốc phòng của mỗi địa phương, đơn vị. Đa số thanh niên Việt Nam hiện nay có tinh thần yêu nước, lòng tự hào dân tộc; luôn vững tin vào sự lãnh đạo của Đảng và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội; tiếp tục phát huy vai trò xung kích, sáng tạo, khẳng định bản lĩnh trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; tích cực hoạt động xã hội, tình nguyện vì cuộc sống cộng đồng. Thanh niên ngày nay đang kế thừa, thể hiện rõ những phẩm chất cần mẫn, thông minh, sáng tạo, cùng với lợi thế về khả năng thích ứng nhanh trước sự phát triển của khoa học, công nghệ.
Tư tưởng của Bác về dám nghĩ, dám nói, dám làm, dám chịu trách nhiệm, sáng tạo, dám đương đầu với khó khăn không chỉ là một nguồn cảm hứng, mà còn là kim chỉ nam cho thế hệ thanh niên ngày nay trong học tập, nghiên cứu, làm việc và cống hiến để đạt tới đỉnh cao tri thức, cống hiến cho sự phát triển của nước nhà. Họ duy trì tâm trí trong sáng, có mục tiêu rõ ràng, không sợ trách nhiệm, không sợ sai; phát huy tốt để từng bước khai phá tiềm năng của bản thân, đóng góp vào sự phát triển của đất nước ngày càng giàu đẹp, văn minh.
Trung ương Đoàn Thanh niên định kỳ thường xuyên tổ chức các giải thưởng như Quả Cầu vàng, Lương Định Của nhằm phát hiện, tôn vinh, lan tỏa những tài năng trẻ xuất sắc trên nhiều lĩnh vực đã dám nghĩ, dám làm, dám đổi mới, sáng tạo, dám hành động để thực hiện có hiệu quả, góp phần quan trọng vào việc giải quyết các thách thức trong nước cũng như toàn cầu về phát triển hạ tầng công nghệ thông tin, bảo vệ môi trường, ứng phó biến đổi khí hậu, y tế, năng lượng, vật liệu mới, nông nghiệp và nhiều lĩnh vực khác. Qua các Giải thưởng, có thể thấy người trẻ Việt Nam đã làm được với nhiều công trình, ý tưởng nghiên cứu đột phá được biến thành hiện thực trong các lĩnh vực trong cuộc sống. Từ đó đã chứng minh rằng không có giới hạn nào đối với tiềm năng của thế hệ trẻ Việt Nam, khẳng định vai trò của mình trên nhiều phương diện, là nguồn nhân lực quan trọng đối với sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước.
Hiện nay, thế giới đang ở trong kỷ nguyên phát triển mới. Cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư tác động mạnh mẽ đến tất cả các quốc gia, tạo ra cả thời cơ và thách thức trong mọi lĩnh vực đời sống xã hội, con người. Trong nước vẫn tồn tại một số khó khăn như hệ thống pháp luật chưa đồng bộ, hoàn thiện; tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ và chủ nghĩa cá nhân chi phối; năng lực, trình độ, chuyên môn, nghiệp vụ của một bộ phận thanh niên còn hạn chế,… từ đó dẫn đến hiện tượng thanh niên giảm sút niềm tin, sống thiếu lý tưởng, thiếu ý thức chấp hành pháp luật, sống thực dụng, có biểu hiện xa rời truyền thống văn hoá tốt đẹp của dân tộc. Tinh thần tiên phong, xung kích, dám nghĩ, dám nói, dám làm, dám chịu trách nhiệm, phấn đấu vượt qua khó khăn, thử thách và dám dám hành động vì lợi ích chung không phải lúc nào và ở đâu cũng đã được phát huy tốt, thậm chí thực tế cho thấy còn một bộ phận thờ ơ, không quan tâm đến các vấn đề của đất nước, của dân tộc, sa vào chủ nghĩa cá nhân, thậm chí có những biểu hiện bất mãn, nhận thức lệch lạc, dễ bị các thế lực thù địch lôi kéo, kích động.
Để khắc phục những hạn chế trên, hơn lúc nào hết, mỗi cán bộ Đoàn phải không ngừng phấn đấu, tư dưỡng rèn luyện, trau dồi đạo đức cách mạng, tích cực học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh, phát huy tinh thần dám nghĩ, dám nói, dám làm, dám chịu trách nhiệm, sáng tạo, dám đương đầu với khó khăn để tiếp tục đóng góp xứng đáng vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa hiện nay.

2. Giải pháp tiếp tục học tập và làm theo tinh thần dám nghĩ, dám nói, dám làm, dám chịu trách nhiệm, dám đổi mới sáng tạo, dám đương đầu với khó khăn, thử thách và dám hành động vì lợi ích chung của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong cán bộ đoàn hiện nay

Một là, nâng cao nhận thức của cán bộ đoàn về sự cần thiết, ý thức trách nhiệm trong thực hành tinh thần dám nghĩ, dám nói, dám làm, dám chịu trách nhiệm, sáng tạo, dám đương đầu với khó khăn, thử thách và dám hành động vì lợi ích chung theo chỉ dẫn của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Cần xác định đây là phẩm chất cần có của là đội ngũ cán bộ Đoàn. Phải thật sự thấm nhuần tư tưởng mà Người đã chỉ dẫn “Thanh niên ta rất hăng hái. Ta biết họp lòng hăng hái đó lại và dìu dắt đúng đắn thì thanh niên sẽ thành một lực lượng rất mạnh mẽ”[55].
Thực tiễn cho thấy, một số cán bộ Đoàn hiện nay vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu công việc đặt ra; vẫn còn một bộ phận cán bộ Đoàn chưa vững về kiến thức chuyên môn, pháp luật; kỹ năng ngoại ngữ, tin học và kỹ năng hành chính, nghiệp vụ công tác còn hạn chế. Những hạn chế này không chỉ ảnh hưởng đến chất lượng thực thi công vụ, chất lượng phục vụ Nhân dân, mà còn làm cho cán bộ đoàn thụ động, không thể đổi mới, sáng tạo do những hạn chế về năng lực, trình độ, không đủ nền tảng kiến thức và tự tin về năng lực đề xuất và thực hiện những sáng kiến, giải pháp đột phá. Bên cạnh đó, một bộ phận cán bộ hiện nay còn tình trạng lu dựa vào những kinh nghiệm, áp dụng một cách máy móc vào công việc, không có động lực đổi mới, thiếu sáng tạo.
Mỗi cán bộ Đoàn cần không ngừng tu dưỡng, rèn luyện phương pháp làm việc khoa học, hiệu quả, sáng tạo để nâng cao trình độ mọi mặt, gắn lý luận với thực tiễn, nói đi đôi với làm, sẵn sàng nhận nhiệm vụ được giao, giải quyết công việc một cách thấu đáo, năng động, sáng tạo. Rèn luyện phong cách làm việc có kế hoạch, thường xuyên tìm tòi, mạnh dạn đề xuất những ý kiến, sáng kiến hay, cách làm hiệu quả; không giáo điều, rập khuôn, máy móc, tự mình tư duy để giải quyết thấu đáo mọi việc đáp ứng tốt yêu cầu và điều kiện thực tiễn đòi hỏi. Luôn có quyết tâm, bản lĩnh chính trị vững vàng để đương đầu với những hậu quả, thách thức phát sinh, góp phần xóa bỏ tình trạng trì trệ, lúng túng trong giải quyết công việc tại các địa phương, cơ quan, đơn vị.
Các cấp bộ Đoàn tiếp tục đẩy mạnh công tác tuyên truyền nâng cao nhận thức bằng nhiều hình thức phong phú; duy trì chuyên mục “Mỗi ngày một tin tốt, mỗi tuần một câu chuyện đẹp” để lan tỏa và nhân rộng những tấm gương cán bộ Đoàn dám nghĩ, dám làm, đổi mới, sáng tạo, thành công trong học tập, công tác.
Hai là, cán bộ đoàn cần tiếp tục thực hành những chỉ dẫn của Chủ tịch Hồ Chí Minh và những định hướng của Đảng ta về trách nhiệm nêu gương; nghiêm túc thực hiện chủ trương nêu gương được khẳng định trong Văn kiện Đại hội Đoàn toàn quốc lần thứ XII, nhất là quan điểm: “cán bộ đoàn cấp trên nêu gương cho cán bộ đoàn cấp dưới, cán bộ đoàn nêu gương cho đoàn viên, đoàn viên nêu gương cho thanh niên, đoàn viên, thanh niên nêu gương cho thiếu niên, nhi đồng”.
Chủ tịch Hồ Chí Minh là hiện thân của tư tưởng “một tấm gương sống còn có giá trị hơn một trăm bài diễn văn tuyên truyền”[56]. Người căn dặn cán bộ, đảng viên: “Trước mặt quần chúng, không phải ta cứ viết lên trán chữ “cộng sản” mà ta được họ yêu mến. Quần chúng chỉ quý mến những người có tư cách, đạo đức. Muốn hướng dẫn nhân dân, mình phải làm mực thước cho người ta bắt chước”[57]. Với Chủ tịch Hồ Chí Minh, nêu gương trở thành một trong những phương pháp giáo dục cụ thể, thiết thực, phù hợp với tính cách con người và văn hóa Á Đông. Theo Người, nêu gương phải được thực hiện trong tất cả các mối quan hệ, từ việc to đến việc nhỏ, từ ứng xử với đồng chí đồng nghiệp trong các cơ quan, đơn vị cho đến gia đình, nhân dân, v.v… để đảm bảo tính thống nhất và nâng cao hiệu quả giáo dục đạo đức cách mạng cho tất cả các chủ thể với cách thức: “Trước hết, mình phải làm gương, gắng làm gương trong anh em, và khi đi công tác, gắng làm gương cho dân. Làm gương về cả ba mặt: Tinh thần, vật chất và văn hoá. Không có gì là khó. Khó như cách mạng mà ta đã làm được và đã thành công. Muốn làm được, ta phải: Quyết tâm, tín tâm và đồng tâm. Ta nhớ ba chữ ấy, thực hành làm gương nêu ba chữ ấy lên, tất là các đồng chí phải thành công”[58]
Đối với cán bộ Đoàn, trong phát huy tinh thần dám nghĩ, dám nói, dám làm, dám chịu trách nhiệm, dám hành động vì lợi ích chung, trước hết cần tiên phong nêu gương trong việc trau dồi đạo đức cách mạng với tinh thần khiêm tốn, giản dị, cầu tiến bộ, dưỡng tâm trong, rèn trí sáng, xây hoài bão lớn, phải có khát vọng vươn lên để cống hiến và coi đó là lẽ sống của mình; tiên phong trong học tập, rèn luyện để có trình độ chuyên môn cao, có năng lực thực tiễn giỏi, là những người đi đầu trong hội nhập sâu rộng với thế giới; tiên phong trong lao động, sản xuất, sáng tạo, đẩy mạnh chuyển đổi số, phát triển kinh tế số trên nền tảng khoa học và công nghệ, đổi mới sáng tạo; tiên phong tình nguyện trong thực hiện nhiệm vụ chính trị, trong thực hiện những việc khó, việc mới, sẵn sàng đi bất cứ nơi đâu, làm bất cứ việc gì mà Tổ quốc và Nhân dân cần; tiên phong trong việc bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ quốc gia, dân tộc, giữ vững an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội.
Bên cạnh đó, các cấp bộ Đoàn tiếp tục duy trì các giải thưởng, hình thức tuyên dương cán bộ đoàn xuất sắc ở các thực hiện tốt việc học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh để phát hiện, lan tỏa các tấm gương tiêu biểu, tạo động lực cho các bạn đoàn viên, thanh niên trong xã hội dám nghĩ, dám làm, nỗ lực và không ngừng phát triển bản thân. Đồng thời kịp thời vinh danh, biểu dương, khen thưởng xứng đáng những cán bộ Đoàn có tư duy đổi mới, cách làm đột phá, sáng tạo, hiệu quả cao, có sức lan toả rộng rãi trong thực tiễn phong trào.
Ba là, thực hiện đúng các khâu trong công tác cán bộ của tổ chức Đoàn. Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn khẳng định cán bộ là gốc của mọi công việc, “Cán bộ nào, phong trào ấy”. Công tác cán bộ là nhiệm vụ then chốt của các cấp ủy Đảng, chính quyền và cả hệ thống chính trị. Công tác cán bộ được Hồ Chí Minh chỉ ra gồm nhiều khâu từ lựa chọn, đào tạo, huấn luyện, đánh giá, sử dụng và chính sách cán bộ. Đó là các khâu mối quan hệ biện chứng với nhau, nếu làm không tốt bất cứ một khâu nào, đều ảnh hưởng đến chất lượng cán bộ và thành quả cách mạng.
Thực tiễn cho thấy, việc thực hiện đúng các khâu trong công tác cán bộ của tổ chức Đoàn, nhất là khâu đánh giá cán bộ có vai trò đặc biệt quan trọng, là tiền đề, là cơ sở để thực hiện các khâu khác của công tác cán bộ. Trong thời gian qua, công tác đánh giá cán bộ nói chung và của tổ chức Đoàn nói riêng vẫn còn có những hạn chế cần sớm khắc phục để khuyến khích cán bộ dám nghĩ, dám làm, dám nói, dám chịu trách nhiệm, dám hành động vì lợi ích chung. Vì vậy, trong thời gian tới, các cấp bộ Đoàn cần tiếp tục thấm nhuần quan điểm đánh giá cán bộ là việc rất hệ trọng, phải nghiên cứu kỹ, sâu sát cán bộ để tham mưu cấp ủy Đảng, chính quyền và lãnh đạo cấp trên có cái nhìn toàn diện, bao quát, tổng thể, khách quan về quá trình rèn luyện, phấn đấu của từng cán bộ, đoàn viên. Thực hiện đúng chỉ dẫn của Chủ tịch Hồ Chí Minh: “Xem xét cán bộ, không chỉ xem ngoài mặt mà còn phải xem tính chất của họ. Không chỉ xem một việc, một lúc mà phải xem toàn cả lịch sử, toàn cả công việc của họ… Nếu ta không xem xét rõ ràng, thì lầm nó là cán bộ tốt. Vì vậy, nhận xét cán bộ không nên chỉ xét ngoài mặt, chỉ xét một lúc, một việc, mà phải xét kỹ cả toàn bộ công việc của cán bộ”[59]. Đặc biệt, mỗi cấp bộ Đoàn cần lượng hóa các tiêu chí đánh giá cán bộ theo vị trí việc làm, có cơ chế để sàng lọc và kiên quyết đưa ra khỏi tổ chức, cơ quan, đơn vị mình những cán bộ không đủ phẩm chất, năng lực, sợ trách nhiệm và nhất là những cán bộ không có uy tín trong đoàn viên, thanh niên.
Trong bối cảnh hiện nay, để phát huy tốt tinh thần đổi mới sáng tạo, dám nghĩ, dám làm, dám nói, dám chịu trách nhiệm, dám hành động vì lợi ích chung, cán bộ Đoàn, đoàn viên, thanh niên nhất thiết phải được đào tạo, bồi dưỡng toàn diện, không chỉ nắm vững chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước mà còn phải có khả năng dự báo, nắm bắt xu thế phát triển chung của đất nước, khu vực cũng như trên thế giới; nhanh chóng thích ứng với những biến đổi mới, yêu cầu mới trong hội nhập quốc tế. Cán bộ Đoàn phải thật sự là những người tiêu biểu về phẩm chất chính trị, đạo đức, lối sống, có trình độ chuyên môn, nghiệp vụ vững vàng, sâu sát, am hiểu thực tiễn công tác Đoàn và phong trào thanh niên; có ý thức trách nhiệm, khát vọng cống hiến, tinh thần đổi mới, hết lòng, hết sức vì nhân dân phục vụ.
Bốn là, xây dựng môi trường làm việc lành mạnh, trong sáng, đoàn kết, đồng thuận ở cơ quan, đơn vị. Đây chính là “chất keo” kết dính, gắn bó tình cảm đồng chí, đồng nghiệp, chân thành, trung thực, tin tưởng nhau, tin tưởng vào tổ chức, vào lãnh đạo; thể hiện tinh thần công bằng, khách quan, dân chủ cơ sở được phát huy, mọi người được tôn trọng và đối xử bình đẳng, quan tâm giúp đỡ, tạo điều kiện để cống hiến và phát triển về mọi mặt.
Quan tâm, động viên, khích lệ tinh thần, xây dựng niềm tin giữa các cán bộ Đoàn, tạo động lực để khơi dậy mạnh mẽ ý thức trách nhiệm, khát vọng cống hiến, tinh thần đổi mới, hết lòng phục vụ nhân dân của cán bộ Đoàn. Tham mưu cấp ủy, lãnh đạo tạo điều kiện để khi cán bộ có ý tưởng mới, đột phá được nghiêm túc xem xét về tính khả thi, nội dung, tính chất, quy mô của ý tưởng, kịp thời xem xét, đánh giá kết quả thực hiện, hướng dẫn cán bộ, đoàn viên xây dựng kế hoạch hoặc xây dựng đề án phù hợp, thảo luận, bàn bạc dựa trên nguyên tắc tập trung dân chủ, tham vấn ý kiến chuyên gia; đánh giá, thẩm định kế hoạch và quyết định cho cán bộ, đoàn viên triển khai hoặc không triển khai. Đặc biệt, trong quá trình thực hiện chức trách, nhiệm vụ được giao, xuất phát từ yêu cầu, đòi hỏi cấp thiết của thực tiễn, khuyến khích cán bộ Đoàn, đoàn viên, thanh niên có tư duy năng động, sáng tạo, cách làm đột phá, giải quyết những vấn đề khó, mới phát sinh từ thực tiễn công tác Đoàn và phong trào thanh niên, mang lại giá trị, hiệu quả thiết thực, tạo được chuyển biến mạnh mẽ, đóng góp tích cực vào sự phát triển chung của tổ chức Đoàn và phong trào thanh niên.
Năm là, thường xuyên theo dõi, kiểm tra, giám sát quá trình triển khai thực hiện chức trách, nhiệm vụ được giao với tinh thần dám nghĩ, dám nói, dám làm, dám chịu trách nhiệm, sáng tạo, dám đương đầu với khó khăn, thử thách và dám hành động vì lợi ích chung.
Để cán bộ Đoàn yên tâm thực hiện ý tưởng, kế hoạch, đề án,… đổi mới, sáng tạo, các tổ chức Đoàn cần tham mưu cấp ủy, tổ chức Đảng có quyết sách đúng đắn kịp thời tháo gỡ những khó khăn, vướng mắc; bảo vệ khi cán bộ gặp rủi ro trong quá trình đổi mới, sáng tạo hoặc bị cản trở, gây khó khăn, vướng mắc hoặc xem xét, điều chỉnh, có quyết định phù hợp với tình hình thực tế của công tác Đoàn và phong trào thanh niên. Định kỳ sơ kết, tổng kết, đẩy mạnh tuyên truyền, nhân rộng những mô hình hay, ý tưởng, cách làm sáng tạo, dám nghĩ, dám nói, dám làm, dám đương đầu với những khó khăn, thử thách và dám hành động vì lợi ích chung; phát hiện sớm và kịp thời uốn nắn, chấn chỉnh những sai sót, vi phạm.
Các cán bộ Đoàn, đoàn viên, thanh niên trong mỗi đơn vị, cơ quan, tổ chức theo dõi, giám sát lẫn nhau, giúp đỡ nhau xây dựng và thực hành đổi mới, dám nghĩ, dám nói, dám làm, dám chịu trách nhiệm, dám vượt qua những khó khăn, thử thách, dám hành động để cùng thực hiện tốt mọi nhiệm vụ chính trị được giao phó, qua đó góp phần xây dựng tổ chức vững mạnh toàn diện hơn.
*        *        *
Đất nước ta đang trên đà hội nhập và phát triển, cán bộ Đoàn, đoàn viên, thanh niên có nhiều cơ hội học hỏi, nghiên cứu, sáng tạo, cống hiến nhưng cũng phải đối mặt với vô vàn thách thức. “Dám nghĩ, dám nói, dám làm, dám chịu trách nhiệm, dám đổi mới sáng tạo, dám đương đầu với khó khăn, thử thách và dám hành động vì lợi ích chung” đã và đang ngày càng trở thành yêu cầu cấp thiết, thôi thúc mỗi cán bộ Đoàn, đoàn viên, thanh niên dấn thân, hành động và tận hiến để góp sức mình vào công cuộc phát triển chung của Tổ quốc./.

 
[1]. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, H.2011, tập 4, tr.187.

[2]. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, H.2011, tập 14, tr.575.

[3]. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, H.2011, tập 14, tr.285.

[4]. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, H.2011, tập 11, tr.92.

[5]. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, H.2011, tập 14, tr.285.

[6]. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, H.2011, tập 13, tr.340.

[7]. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, H.2011, tập 12, tr.224.

[8]. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, H.2011, tập 12, tr.359.

[9]. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, H.2011, tập 12, tr.517.

[10]. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, H.2011, tập 12, tr.257.

[11]. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, H.2011, tập 12, tr.528.

[12]. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, H.2011, tập 12, tr.332.

[13]. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, H.2011, tập 5, tr.333.

[14]. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, H.2011, tập 5, tr.292.

[15]. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, H.2011, tập 5, tr.290.

[16]. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, H.2011, tập 5, tr.273.

[17]. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, H.2011, tập 5, tr.301.

[18]. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, H.2011, tập 5, tr.319-320.

[19]. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, H.2011, tập 5, tr.320.

[20]. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, H.2011, tập 15, tr.526.

[21]. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, H.2011, tập 15, tr.661.

[22]. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, H.2021, tập 5, tr.292.

[23]. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, H.2021, tập 15, tr.623.

[24]. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, H.2021, tập 6, tr.131.

[25]. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, H.2021, tập 11, tr.487.

[26]. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, H.2011, tập 4, tr.97.

[27]. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, H.2011, tập 13, tr.70.

[28]. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, H.2011, tập 9, tr.265.

[29]. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, H.2011, tập 13, tr.470.

[30] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, H.2011, tập 13, tr.471.

[31]. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, H.2011, tập 13, tr.471.

[32]. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, H.2011, tập 5, tr.284.

[33]. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, H.2011, tập 5, tr.285.

[34]. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, H.2011, tập 13, tr.70.

[35]. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, H.2011, tập 5, tr.319.

[36]. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, H.2011, tập 5, tr.320.

[37]. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, H.2011, tập 5, tr.316.

[38]. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, H.2011, tập 5, tr.320.

[39]. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, H.2011, tập 10, tr.457.

[40]. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, H.2011, tập 15, tr.325.

[41]. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, H.2011, tập 5, tr.39.

[42]. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, H.2011, tập 5, tr.334.

[43]. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, H.2011, tập 5, tr.338.

[44]. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, H.2011, tập 5, tr.284.

[45]. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, H.2011, tập 5, tr.272.

[46]. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, H.2011, tập 12, tr.335.

[47]. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, H.2011, tập 5, tr.636.

[48]. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, H.2011, tập 5, tr.637.

[49]. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, H.2011, tập 13, tr.471.

[50]. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2021, tập II, tr.226.

[51]. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2021, tập I, tr.42.

[52]. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, H.2011, tập 5, tr.216.

[53]. Xem: Đoàn thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh: Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XII (nhiệm kỳ 2022-2027), Nxb Thanh niên, H.2022, tr.35-36.

[54]. Đoàn thanh niên Cộng sán Hồ Chí Minh: Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XII (nhiệm kỳ 2022-2027), Nxb Thanh niên, H.2022, tr.19.

[55]. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, H.2011, tập 8, tr.331.

[56]. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, H.2011, tập 1, tr.284.

[57]. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, H.2011, tập 6, tr.16.

[58]. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, H.2011, tập 4, tr.171.

[59]. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, H.2011, tập 5, tr.318.
 



bình luận

Tỉnh đoàn Thái Bình

Địa chỉ: Số 15, Đường Hoàng Diệu, phường Lê Hồng Phong, Thái Bình, Vietnam
Điện thoại: 0227 3831 238
Email: trinhthanhit@gmail.com
© Bản quyền thuộc về Tỉnh đoàn Thái Bình.